Sập thờ là gì? Lịch Sử Hình Thành Sập Thờ Tại Việt Nam
Đây là một loại hình hầu như chưa tìm được từ thế kỷ XVI trở về trước. Chiếc sập thờ hiện nay được coi là có niên đại sớm nhất (giữa thế kỷ XVII) tìm thấy ở đình Phú Thượng thuộc quận Tây Hồ (Hà Nội). Sập có kích thước lớn hơn chiếc giường đôi bình thường chút ít, có độ cao khoảng 40 cm, bố cục đơn giản, mặt lát ván sơn then, xung quanh cũng là ván bưng kín. Đáng quan tâm ở sập thờ này là những hình trang trí nổi với những rồng, phượng, đặc biệt là hệ thống đao mác được chạm một cách hết sức mạnh mẽ, dứt khoát và như một chuẩn mực của nghệ thuật đương thời.
Tìm hiểu về sập thờ là gì?
Chiếc sập thờ điển hình (to ngang sập gỗ hiện tại) được làm vào đời Chính Hòa (1680-1705) bằng chất liệu đá ở trước cửa điện thờ chính đền vua Đinh (Hoa Lư – Ninh Bình). Để tạo thế uy nghi cho sập, người đương thời đã tạc thêm hai con rồng bó hai bên, nhằm tạo thế tay ngai. Chiếc sập này cũng được gọi là vân sàng hay long sàng với trên mặt là một con rồng khá lớn, trung tâm là đầu và thân uốn vòng quanh. Rồng được bố cục chặt chẽ, phần nào quy phạm, nhưng nhiều khi nó không tuân thủ những quy định, cụ thể là các móng chân lúc thì mang dáng móng chim ưng, lúc lại như bàn tay người, thậm chí có chân tới 6 ngón.
Có thể nghĩ con rồng này tượng trưng cho bầu trời mây, chủ của nguồn nước phồn thực. Kết hợp với nó là đường diềm rất đẹp, bốn phía được chạm nổi những biểu tượng liên quan tới nước như đôi rồng chầu cụm vân xoắn ốc tỏa đao mác, hình cá, tôm, chuột nước, thiên nga rất sống động. Mặt đứng của sập thờ được bố trí một đường diểm lá sõi trong tư thế kênh tạo cho thân sập ở mặt trước mang tính điêu khắc rất cao với những ô chữ nhật trang trí nổi hình các linh thú chạy về ô trung tâm là hoa cúc.
Mặt sau của thân sập chỉ chạm nổi một hàng hoa chanh bốn cánh đơn. Sập đền vua Đinh có phần thân thấp hơn phần đế. Phần dưới được mở rộng bằng một gờ giật cấp vuông thành sắc cạnh, rồi mở rộng thêm bằng một mặt cong hình lợi chậu, ở mặt trước, hình chạm khắc chủ yếu là vân xoắn và đao mác với chính tâm là bông hoa cách điệu, song nét chạm phần bụng khá sâu như tạo hình chần quỳ dạ cá rất rõ rệt. Mặt sau cũng biểu hiện hình chân quỳ dạ cá song phần bụng nông, trang trí nhiều hơn.
Sập đền Đinh chỉ cao xấp xỉ 40cm, vì quá thấp nên nó được kê trên một nền bó vỉa đá hộc để tạo thế uy nghiêm. Chiếc sập thờ này có lẽ là một hiện vật chính trong ý thức tôn thờ nên phần trên của nó được làm bằng đá nguyên khối, còn phần dưới được lắp ghép. Khoảng thế kỷ XVIII ở trước nghi môn ngoại đền Đinh cũng có một chiếc sập tương tự , với cùng một bố cục, trên mặt cũng chạm rồng, phần thân cũng bổ ô trang trí các linh vật và bốn mặt phần đế kết cấu kiểu chân quỹ dạ cá, bốn góc là bốn thao thiết, chính giữa là một hổ phù rất dữ tợn.
Vào thế kỷ XIX để cân xứng với đền vua Đinh, thì ỏ đền vua Lê cũng làm sập đá ở hai vị trí tương tự. Song, những sập này khá thấp và giá trị nghệ thuật không cao. Thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở nhiều di tích trên đất Bắc có sập đá, nó được làm để phục vụ cho tế lễ. Một ví dụ cụ thể như chiếc sập khá lớn được kê dọc trên sân trước của chùa BỐI Khê (Thanh Oai – Hà Tây). Sập này có chiều dài trên 4m và chiều rộng xấp xỉ 2m, được chạm nổi rất kỹ các đề tài linh vật. Song, nó cũng khó đạt được là một hiện vật chuẩn mực về nghệ thuật.
Cũng thời này tại các phủ, điện lớn (như phủ Giầy – Nam Định), để thay thế cho những bệ tượng thờ riêng biệt, hay để đặt được nhiều đồ thờ đồ lễ trên cùng một mặt bằng tại cung cấm người ta đã làm những sập gỗ cao thấp không nhất định, tuỳ theo nơi đó có bệ xây hay không. Thông thường những chiếc sập thờ này được sơn son thếp vàng (hầu hết phủ hoàn kim) với các đề tài tứ linh, hổ phù, thao thiết cùng hoa lá cách điệu và biểu tượng tự nhiên v.v… Chiếc sập thờ được coi là vật dụng của thần, song cũng mang ý nghĩa để cao, hợp với ý thức tôn sùng của người đương thời (chúng tôi chưa muốn đề cập tới những sập thờ của nghệ thuật phục vụ cung đình. Chẳng hạn như ở Thế Miếu – Huế).
>>> xem thêm các mẫu bàn thờ sập thờ đẹp <<< tại đây